Monday 25 May 2015

Tịch Phương Bình 席方平


Giới thiệu

Tịch (Phương Bình) nghĩ âm ti còn ám muội hơn cả trần gian. Câu viết tố cáo tệ nạn tham ô dưới thời quân chủ chuyên chế nhà Mãn Thanh Trung Quốc. Chuyện xưa mà tưởng vẫn đúng trong những chế độ xã hội độc tài ngày nay.


  (I)Tịch Phương Bình (I)






使











便




便












忿









































使






































使









便


























使



使












Tịch Phương Bình, người huyện Đông An (1). Cha tên là Liêm, tính tình ngay thẳng nhưng vụng ăn nói (2). Ở trong làng Liêm có hiềm khích với một người nhà giàu họ Dương. Họ Dương chết trước. Vì thế, mấy năm sau, khi Liêm bệnh nặng sắp nguy kịch nói với người ta rằng: "Lão Dương nay đang hối lộ (3) dưới âm phủ (4) sai đánh đập tôi đó." Chốc lát, mình mẩy sưng phù bầm tím, kêu gào rồi chết. Tịch đau xót thảm thiết không chịu ăn uống, nói: "Cha ta là người chất phác (5), nay bị bọn quỷ dữ lấn ép, ta xuống âm ti thay cha xin minh oan (6)." Từ đó, không nói gì nữa cả, khi đứng hoặc ngồi, vẻ như người ngây. Thì ra hồn đã lìa khỏi xác.

Tịch vừa thấy mình ra khỏi cửa, chưa biết đi đâu. Nhưng thấy người đi trên đường, liền hỏi đường đến thành ấp. Một lúc sau, vào thành. Thấy cha mình đã bị giữ ở trong ngục. Tịch đến cửa ngục, thấy cha nằm dưới mái hiên, bộ dạng hết sức khốn khổ (7). Cha Tịch ngẩng mắt lên, nhìn thấy con từ xa, chảy nước mắt giàn giụa, liền nói: "Bọn ngục lại đều ăn đút lót, ngày đêm đánh đập (8) cha, chân cẳng đùi vế nát bấy cả rồi." Tịch nổi giận lớn tiếng mắng bọn ngục tốt: "Cha ta nếu như có tội, thì đã có pháp luật âm phủ, há để bọn quỷ mị chúng bay tự tiện ngang ngược hay sao!". Rồi lấy bút ra viết đơn kiện. Thì vừa gặp đúng buổi chầu sớm ở sở quan Thành hoàng, liền đưa đơn vào.

Họ Dương sợ, đem hối lộ từ trong lẫn ngoài, rồi mới ra đối chất (9). Thành hoàng coi rằng đơn tụng không có bằng chứng, không cho Tịch vào chầu. Tịch tức giận không biết lại kêu oan vào đâu, đi thêm một trăm dặm nữa tới quận, đem đơn kiện báo cho quận ti. Lâu cả nửa tháng mới được vào cật vấn. Quận ti ra lệnh đánh đòn Tịch một trận và phê cho Thành hoàng xét xử lại. Tịch tới ấp, thân bị cùm kẹp (10), không thể tự mình bày tỏ oan khuất (11). Thành hoàng sợ Tịch lại đưa kiện nữa, sai quân hầu áp giải về nhà. Bọn sai dịch (đưa Tịch) tới cửa rồi bỏ về. Tịch không chịu vào nhà, lẻn trốn về âm phủ, tố cáo quận ti tham ô. Diêm Vương (vua âm phủ) liền cho câu lưu đối chất. Hai quan bí mật sai kẻ tâm phúc đến điều đình với Tịch, hứa cho một ngàn lạng vàng. Tịch không nghe. Được mấy ngày, chủ quán (12) (chỗ Tịch bị giam giữ) bảo: "Ông cứng đầu quá, phủ quan muốn giải hòa mà không chịu nhận. Nghe nói các quan mang thư tới trước Diêm Vương. Tôi e việc không tốt đâu." Tịch cho là lời đồn đãi vô căn cứ nên không tin lắm. Một chốc có người áo đen gọi vào. Lên sảnh đường thấy Diêm Vương có vẻ giận dữ, không cho phép nói gì cả, ra lệnh đánh Tịch hai mươi đòn (13). Tịch lớn tiếng hỏi: "Tôi có tội gì?" Diêm Vương làm như không nghe thấy. Tịch chịu đòn, la to: "Bị đòn là đáng kiếp! Ai bảo ngươi không có tiền." Diêm Vương càng giận thêm, sai đem đặt lên giường lửa. Hai con quỷ lôi Tịch xuống, thấy thềm bên cạnh có đặt cái giường sắt, bên dưới có lửa đốt, mặt giường đỏ rực. Quỷ lột áo Tịch ra, đặt lên đó, lăn qua lăn lại, dày vò đè ép. Tịch cực kì đau đớn, xương thịt cháy đen, khổ muốn chết mà không được. Khoảng hai giờ sau, một con quỷ nói: "Đủ rồi." Đoạn kéo Tịch khỏi giường, cho mặc áo; may mà còn khập khễnh đi được. Tịch lại đi lên sảnh đường, Diêm Vương hỏi: "Dám kiện nữa thôi?" Tịch nói: "Oan uổng chưa bày giải xong, tấc lòng này chưa chết; nếu bảo không kiện nữa, tức là dối gạt ngài. Vậy sẽ kiện nữa." Diêm Vương lại hỏi: "Kiện điều gì?"  Tịch nói: "Thân này phải chịu đựng những gì, đều nói ra hết." Diêm Vương lại nổi giận, sai đem Tịch ra cưa thân thể. Hai con quỷ lôi đi, Tịch thấy một cây gỗ dựng đứng, cao chừng tám chín thước, trên có hai tấm gỗ, ở trên ở dưới, máu đọng bê bết. Hai con quỷ sắp sửa trói Tịch vào đó, bỗng nghe trên sảnh đường hô lớn: "Tên Tịch!" Hai con quỷ lại áp giải Tịch trở lại (chỗ cũ). Diêm Vương lại hỏi: "Còn dám kiện tụng nữa thôi?" Tịch đáp: "Vẫn kiện." Diêm Vương ra lệnh tức tốc mang đi. Dưới cây gỗ, hai con quỷ lấy hai tấm gỗ kẹp Tịch lại, buộc lên cây gỗ. Cái cưa vừa hạ xuống, Tịch có cảm giác như óc trên đỉnh đầu từ từ nứt ra, đau đớn không chịu nổi, nhưng vẫn cắn răng không kêu la. Nghe một con quỷ nói: "Tên này cứng cỏi thiệt!" Tiếng cưa soàn soạt xuống tới dưới ngực, lại nghe một con quỷ nói: "Người này rất có hiếu không có tội, cưa xiên qua một bên, đừng hại vào tim." Tịch nghe lưỡi cưa quẹo quành xuống dưới, càng đau đớn gấp bội. Một lúc sau, thân đứt làm hai. Khi hai tấm gỗ mở ra, hai nửa mình đổ xuống đất. Hai con quỷ lên sảnh đường cất tiếng thông báo (đã cưa xong). Sảnh đường truyền lệnh ráp hai nửa thân hình lại rồi đem lên xem. Hai con quỷ liền ấn hai phần thân thể dính lại với nhau và lôi đi. Tịch có cảm giác chỗ đường cưa đau muốn xé ra, mỗi nửa bước lại té nhào. Một con quỷ rút từ lưng ra một sợi dây đưa cho Tịch nói: "Tặng anh báo hiếu." Tịch cầm lấy buộc vào lưng, bỗng thấy mình khỏe khoắn, không còn chút đau đớn nào nữa. Rồi lên sảnh đường quỳ xuống. Diêm Vương lại hỏi như lần trước. Tịch khiếp sợ lại bị tra tấn khốc liệt, liền nói: "Không kiện nữa." Diêm Vương tức thì ra lệnh dẫn Tịch đưa về dương gian. Lính canh dẫn Tịch ra cửa phía bắc, chỉ cho đường về, rồi quay trở lại (âm phủ). Tịch nghĩ âm ti còn ám muội hơn cả trần gian, nhưng khốn nỗi không biết đường nào kêu tới Thượng Đế. Tục truyền Nhị Lang ở Quán Khẩu là người có công huân với Thượng Đế, là bậc thần thông minh chính trực, cầu xin chắc được linh ứng. Mừng thấy hai tên lính canh đã đi khỏi rồi, Tịch liền xoay mình đi về hướng nam. Trong lúc đang tất tả chạy, thì có hai người đuổi theo: "Diêm Vương đã ngờ nhà ngươi không chịu về, quả nhiên là thế!" Chúng nó liền dẫn trở về gặp lại Diêm Vương. Tịch thầm nghĩ Diêm Vương sẽ nổi nóng hơn nhiều, tai vạ càng dữ dội thêm nữa. Nhưng Diêm Vương không có vẻ giận chi cả, bảo Tịch rằng: "Ngươi thật chí hiếu. Còn oan khuất của cha ngươi, ta đã rửa sạch như tuyết rồi. Bây giờ đã được đầu thai ở nhà giàu sang, thì ngươi còn kiện cáo âm phủ làm chi. Nay đưa ngươi về, cho ngươi nghìn lạng vàng làm tài sản, tăng thêm tuổi thọ, ngươi bằng lòng chưa?" Rồi ghi vào sổ, đóng con dấu thật to, đưa cho Tịch xem tận mắt. Tịch lạy tạ, lui xuống. Hai con quỷ cùng ra theo, tới ngoài đường, vừa xua đi vừa chửi Tịch: "Thằng giặc gian trá, bao lần tráo trở, làm bọn tao vất vả muốn chết. Mi mà làm như thế nữa, sẽ bắt mi bỏ vào cối xay, nghiền thành bột." Tịch trợn mắt quát lớn: "Đồ quỷ tầm bậy. Tính ta sợ dao cưa, chứ không sợ đánh đập. Cứ về hỏi lại Diêm Vương; Diêm Vương ra lệnh cho ta tự về, sao lại mất công dẫn đi theo làm gì?" Đoạn chạy ngược lại. Hai con quỷ sợ, xuống giọng khuyên nhủ Tịch trở về. Tịch cố ý đi chậm chạp, đi vài bước lại nghỉ bên đường. Hai con quỷ nuốt hận, không dám nói gì nữa.

  (II)Tịch Phương Bình (II)


便








簿








使








殿



























西


















便
















使殿










使






























Khoảng nửa ngày, đến một xóm nọ, có một cửa hé mở, hai con quỷ dẫn Tịch cùng ngồi. Tịch liền ngồi ở bậc cửa. Hai con quỷ thừa dịp bất ngờ, đẩy Tịch vào trong cửa. Khi định thần nhìn xem thì mình đã hóa sinh thành đứa bé con. Phẫn uất kêu khóc, ba ngày không bú rồi chết. Hồn vất vưởng không quên Quán Khẩu. Đi được chừng mấy chục dặm, bỗng thấy lọng kích (14) ngang đường. Tịch vì muốn tránh, vượt qua đường, nên phạm phải nghi trượng (15), bị lính đi trước ngựa bắt, trói đem giải lên trước xe. Ngẩng lên trông thấy trong xe có một người trẻ tuổi, dáng dấp khôi ngô tuấn tú. Người thiếu niên hỏi Tịch: "Ai đấy?" Tịch chính vì oan khuất chưa biết bày tỏ nơi đâu, nghĩ rằng đây là một viên quan to, có thể tác oai tác phúc, nên nói ra hết mọi điều oan ức khổ sở mà mình đã chịu đựng. Người trong xe ra lệnh cởi trói cho Tịch và sai cho đi theo xe. Một lúc sau đến một nơi, có cả hơn chục quan viên nghênh đón bên trái đường. Người trong xe hỏi thăm từng người. Xong chỉ Tịch và nói với một ông quan rằng: "Đây là một người dưới trần vừa muốn kêu nài, nên xét xử ngay lập tức."  Tịch hỏi người theo hầu mới biết người trong xe là Cửu Vương điện hạ của Thượng Đế, và người được dặn bảo chính là Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang, thân hình cao lớn, mặt mày râu ria rậm rạp, không giống như thế gian truyền tụng. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang đến một sở quan, chính là chỗ cha Tịch và lão họ Dương bị giam giữ. Chốc lát trong xe tù có tù nhân chui ra, thì chính là Diêm Vương cùng với Quận ti và Thành hoàng. Mọi lời thẩm vấn đối chất  đều không sai khác những lời Tịch đã khai. Ba quan run sợ, trông như chuột mắc bẫy. Nhị Lang cầm bút phán quyết. Một lát sau, bản án truyền xuống, cho mọi người trong vụ án xem. Quyết định như sau:

Xét rằng Diêm Vương, được phong tước vương, thụ ơn thượng đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch để dẫn dắt thuộc quan, không được tham ô mà bị chê bai chỉ trích. Thế mà y nghi trượng nghênh ngang, chỉ khoe khoang cấp bậc cao sang; tham lam ác độc như giống cừu loài sói, làm nhơ nhuốc phẩm cách bề tôi. Búa đánh, dao chặt, vợ con xương thịt còn chi. Cá lớn nuốt cá bé, cá ăn tôm;  đàn kiến nhỏ nhoi đáng xót. Phải vốc nước Tây giang (16) đem mi ra rửa ruột; đem đốt nóng giường đông, cho ngươi vào hũ (17).


Xét rằng Thành hoàng, quận ti, là quan cha mẹ dân đen, chăn dắt bò dê cho Thượng đế. Tuy chức phận ở hàng dưới, (nhưng là) người tận tụy há chịu khom lưng; dù bị quan trên chèn ép, kẻ vững chí phải nên cứng cổ. Thế mà lại làm tay chân cho loài diều loài ó, quên nghĩ tới thân phận dân nghèo. Lại còn vênh váo thói khỉ vượn gian manh, chẳng hiềm làm loài quỷ đói. Chuyên ăn bòn đút lót làm điều trái phép, đúng là bầy mặt người dạ thú. Phải cho rút tủy thay lông, lột da đổi vỏ mà đi đầu thai kiếp khác.


Xét rằng mấy tên sai dịch, đã ở cùng lũ quỷ, đâu phải loài người. Cửa công nên gắng tu sửa, hòng mong trở lại kiếp người. Cớ sao biển khổ dậy sóng, gây nên oan nghiệt tày trời? Vênh vang ngang ngược, mặt chó (tạo điều oan khuất) khiến cho sương rơi tháng hạ (18). Náo loạn kêu gào, oai hổ cắt ngang đường lớn. Phóng túng dọa dẫm nơi âm phủ, ai ai đều biết cai tù đáng nể. Theo hùa giúp rập bọn quan tham tàn ác độc, mọi người cùng khiếp phường đồ tể. Đáng đưa chúng nó ra pháp trường chặt đứt chân tay; lại đem bỏ vào vạc sôi dầu bỏng, vớt ra chỉ còn gân với cốt.


Xét rằng lão họ Dương, giàu có nhưng không có lòng nhân; gian giảo nhiều mánh lới. Ánh vàng bạc rọi đất, khiến cho hết thảy điện đài ở cõi âm cũng phải lu mờ. Hơi đồng ngút trời, làm cho những người chết oan trong thành không còn thấy được mặt trời mặt trăng. Mùi tiền bạc tanh tưởi sai khiến được quỷ, sức mạnh của nó làm lay động tới cả bậc thần. Nên truyền lệnh tịch biên gia sản họ Dương, đem tưởng thưởng lòng chí hiếu của ông Tịch. Tức khắc giao phó cho thần núi Thái Sơn thi hành án kiện. 

 
Lại nói với Tịch rằng: "Nghĩ nhà ngươi có lòng hiếu nghĩa, tính tình lương thiện, ban tuổi thọ ở dương gian thêm hai kỉ nữa (mỗi kỉ bằng mười hai năm)." Nhân thể cho sai dịch đưa hai người về làng. Tịch bèn chép lại bản án, trên đường về cha con cùng đọc. Tới nhà, Tịch sống lại trước tiên, bảo người nhà mở quan tài xem cha, xác cứng đờ vẫn còn lạnh giá, đợi suốt một ngày mới từ từ ấm lại và sống dậy. Khi muốn xem lại bản sao văn án thì không còn nữa. Từ đó, gia sản mỗi ngày một thêm giàu có; trong vòng ba năm, ruộng màu đầy đồng, trong khi con cháu họ Dương càng ngày càng sa sút, nhà cửa vườn tược trở thành sở hữu của Tịch hết. Người trong làng có ai muốn mua ruộng đất nhà họ Dương, ban đêm nằm mộng thấy thần nhân hô hoán bảo rằng: "Đó là gia sản của Tịch, không lấy được đâu." Mới đầu không tin lắm, tới khi mua về cày cấy trồng trọt, suốt năm không thu hoạch được một thăng một đấu nào cả; do đó, phải bán lại cho Tịch. Cha Tịch hơn chín mươi tuổi mới chết.

Dị Sử Thị bàn rằng: "Ai ai cũng nói về Tịnh Độ, nhưng không biết thế giới người sống và người chết cách biệt nhau; những ý niệm mê muội, còn không biết từ đâu đến cũng chẳng biết đi về đâu; huống chi chuyện chết rồi lại chết, sinh rồi lại tái sinh. Một niềm trung hiếu vững vàng, muôn kiếp không dời đổi. Lạ lùng thay ông Tịch, thật là kì vĩ."
 
 

(Đặng Thế Kiệt dịch)

Nguồn: http://www.sidneyluo.net/e/e6/398.htm






















No comments:

Post a Comment