Saturday 25 October 2014

thâu đào 偷桃 - chú thích



(1) thương cổ: nhà buôn bán. 
(2) phiên ti: ti bố chánh. Thời nhà Thanh, bố chánh là trưởng quan phụ trách về dân chánh kiêm tài chánh các tỉnh.
(3) thái lâu: nhà lầu trang hoàng rực rỡ. Bản tiếng Pháp của André Lévy (tome 1, trang 65, Editions Philippe Picquier, 2005) dịch là "chars décorés" (xe có trang hoàng). 
(4)  như đổ: đổ là bức tường; như đổ nghĩa là rất đông người (đông nghẹt người xem như một bức tường). 
(5) tễ tào: ồn ào.
(6) hà đảm: quẫy gánh.
(7) thanh y: áo xanh hoặc áo đen (áo quan bậc thấp thường mặc).
(8) sở trường: tài khéo đặc sắc của một người.
(9) năng điên đảo sinh vật.
(10) nam diện: ngày xưa thiên tử ngồi quay mặt về hướng nam; chỉ ở địa vị tôn quý. Ở đây chỉ ông quan lớn trên đài.
(11) bất liễu liễu: không chịu hiểu cho.
(12) Vương Mẫu: Tương truyền rằng bà Tây Vương Mẫu 西 cho Hán Võ Đế quả đào và bảo rằng thứ đào này ba nghìn năm mới chín một lần, ăn được trường sinh bất tử.
(13) bại: mỏi mệt.
(14) li: gặp, mắc phải.
(15) miêu duệ: con cháu đời sau. Ở đây, chỉ dòng nhánh của một trường phái học thuật.



Tuesday 21 October 2014

thâu đào


Giới thiệu
Lời văn trong sáng và dí dỏm, người đọc có cảm tưởng đây là kí sự của Bồ Tùng Linh thời thơ ấu. Ảo thuật lạ lùng, chuyện bàn đào của bà Tây Vương Mẫu... cả một truyền thống văn hóa Trung Hoa hiển hiện ra đấy. Đoạn kết nói về phái Bạch Liên giáo thời nhà Thanh (thế kỉ 19) như nhắc nhở đến những cuộc đàn áp đẫm máu phe chống đối, vẫn còn xảy ra ngày nay ở dưới những chế độ không dân chủ.




thâu đào trộm đào

đồng thì phó quận thí trị

xuân tiết cựu lệ tiên nhất

nhật các hàng thương cổ (1) thải

lâu (3) cổ xuy phó phiên ti (2) danh

viết diễn xuân」。 tòng

hữu nhân chúc thị nhật du

nhân như đổ (4) đường thượng tứ quan
西
giai xích y đông tây tương hướng

tọa thì phương trĩ diệc bất

giải quan đãn văn nhân

ngữ tễ tào (5) cổ xuy quát nhĩ

hốt hữu nhất nhân suất phi phát

đồng đảm (6) nhi thượng tự

hữu sở bạch vạn thanh hung động

diệc bất văn vi ngữ

đãn thị đường thượng tác tiếu thanh

tức hữu thanh y (7) nhân đại thanh mệnh

tác kịch nhân ứng mệnh phương

hưng vấn:「 tác kịch

?」 đường thượng tương cố sổ ngữ

lại hạ tuyên vấn sở trường (8)

đáp ngôn:「 năng điên đảo sanh

vật (9)。」 lại bạch quan

thiểu khoảnh phục hạ mệnh thủ đào

tử thuật nhân thanh nặc giải

y phú tứ thượng cố tác oán

trạng viết:「 quan trưởng thù

bất liễu liễu (11) kiên băng vị giải

an sở đắc đào bất thủ

hựu khủng vi nam diện (10) giả sở

nộ nại!」 tử

viết:「 phụ nặc chi

hựu yên từ?」 thuật nhân trù

trướng lương cửu nãi vân:「

ngã trù chi lạn thục xuân

tuyết tích nhân gian xứ khả

mịch duy vương mẫu (12)viên trung

tứ thì thường bất điêu tạ hoặc

hữu chi tất thiết chi thiên thượng

nãi khả。」 tử viết

hi thiên khả giai nhi thăng

hồ?」 viết:「 hữu thuật

tại。」 nãi khải tứ xuất

thằng nhất đoàn ước sổ thập trượng

đoan vọng không trung

trịch khứ thằng tức huyền lập không

tế nhược hữu vật quải chi

vị kỉ trịch cao

miểu nhập vân trung thủ trung

thằng diệc tận nãi tử viết

:「 nhi lai lão bại (13)

thể trọng chuyết bất năng hành

đắc nhữ nhất vãng。」 toại

thằng thụ tử viết:「

trì thử khả đăng。」 tử thụ

thằng hữu nan sắc oán viết

a ông diệc đại hội hội

như thử nhất tuyến chi thằng dục

ngã phụ chi đăng vạn nhận

chi cao thiên thảng trung đạo đoạn

tuyệt hài cốt tồn

phụ hựu cường ô phách chi

viết:「 ngã thất khẩu

hối cập phiền nhi nhất hành

nhi vật khổ thảng thiết đắc

lai tất hữu bách kim thưởng

đương vi nhi thú nhất phụ

tử nãi trì tác bàn toàn

nhi thượng thủ di túc tùy

như chu sấn ti tiệm nhập vân

tiêu bất khả phục kiến cửu

chi trụy nhất đào như oản

đại thuật nhân hỉ trì hiến

công đường đường thượng truyền thị lương

cửu diệc bất tri chân ngụy

hốt nhi thằng lạc địa thượng

thuật nhân kinh viết:「 đãi

thượng hữu nhân đoạn ngô thằng

nhi tương yên thác!」 di thì

nhất vật đọa thị chi

tử thủ phủng nhi khấp

viết:「 thị tất thâu đào

vi giam giả sở giác ngô nhi

hưu!」 hựu di thì

nhất túc lạc chi

thể phân đọa phục tồn giả

thuật nhân đại bi nhất nhất

thập trí tứ trung nhi hạp chi

viết:「 lão phu chỉ thử nhi

nhật tòng ngã nam bắc du

kim thừa nghiêm mệnh bất ý li (14)

thử thảm đương phụ khứ ế

chi。」 nãi thăng đường nhi quỵ

viết:「 vi đào cố

sát ngô tử như liên tiểu

nhân nhi trợ chi táng đương kết

thảo đồ báo nhĩ。」 tọa

quan hãi các hữu tứ kim

thuật nhân thụ nhi triền chư yêu

nãi khấu tứ nhi viết

bát bát nhi bất xuất tạ

thưởng tương đãi?」 hốt

nhất bồng đầu đồng thủ để tứ cái

nhi xuất vọng bắc khể thủ

tắc tử thuật

cố chí kim do chi

hậu văn bạch liên giáo năng

vi thử thuật ý thử miêu

duệ (15) da
Tôi hồi trẻ con ra quận đi thi, gặp đúng lễ hội mùa xuân. Theo lệ cũ, trước một ngày, các cửa hàng nhà buôn đều trang hoàng rực rỡ, (gõ chiêng) đánh trống kéo nhau đến cửa quan bố chánh, (tục lệ đó) mang tên là "diễn xuân". Tôi theo bạn bè đi xem trò vui. Hôm đó, người đi chơi xuân đông nghẹt. Trên sảnh đường, có bốn ông quan, đều mặc áo đỏ, ngồi đối diện nhau hướng đông và hướng tây. Bấy giờ tôi còn nhỏ, không rõ là những quan nào. Chỉ nghe tiếng ồn ào, chiêng trống inh tai. Bỗng có một người gánh một đứa trẻ xõa tóc đi lên, như có điều gì muốn nói. Nhưng tôi cũng không nghe được lời nói gì giữa trăm ngàn tiếng động ầm ĩ. Chỉ nghe thấy tiếng cười vang trên sảnh đường. Liền thấy người mặc áo đen lớn tiếng truyền lệnh cho làm trò. Người kia tuân lệnh đứng lên hỏi: "Thưa làm trò gì ạ?" Trên sảnh các quan bàn luận với nhau một lúc. Viên quan lại xuống hỏi (người gánh) có sở trường gì. Trả lời: "Tôi có thể làm đảo lộn cả những vật sống." Viên lại trở lên bẩm với các quan. Lát sau trở xuống bảo phải đi hái một trái đào (dâng lên quan). Người làm trò dạ lớn. Rồi cởi áo trùm lên cái sọt, lại làm ra vẻ rầu rĩ oán than: "Quan lớn thật là không chịu hiểu cho. Giá băng lạnh cứng chưa tan, làm sao mà hái đào được. Nhưng không hái thì quan lớn nổi giận. Biết làm sao bây giờ?" Đứa con nói: "Cha đã nhận lời rồi, sao còn từ chối được nữa." Người làm thuật rầu rĩ hồi lâu, rồi nói: "Ta suy tính nát óc rồi. Đầu xuân tuyết đọng, ở cõi người ta biết đâu mà tìm. Chỉ có trong vườn của Tây Vương Mẫu, bốn mùa (cây cỏ) không hề héo úa, chắc mới có (đào). Chỉ còn cách hái trộm trên trời mới được thôi." Đứa con nói: "Ơ mà bắc thang lên trời được hay sao?" Người cha đáp: "Đã có phép thuật." Rồi mở sọt lấy một cuộn dây thừng ra, dài chừng mấy chục trượng, gỡ một đầu, rồi quăng cuộn dây lên không trung. Sợi thừng tức thì treo vào khoảng trời không, như có cái gì móc vào vậy. Chẳng bao lâu, càng quẳng càng lên cao, tít tận từng mây. Cuộn thừng trong tay cũng hết. (Người cha) gọi con bảo: "Con lại đây, ta già yếu mệt mỏi, xác nặng vụng về, đi không được, nhờ con đi hộ." Rồi đưa dây thừng cho con và nói: "Nắm chỗ này có thể lên được." Đứa con cầm dây, nét mặt khó đăm đăm, nói như oán trách: "Cha cũng thiệt là hồ đồ. Một sợi dây như thế này, bảo tôi bám vào mà trèo lên trời cao tít tắp hàng vạn thước. Nếu nửa chừng đứt dây, thì hình hài xương xẩu còn đâu nữa!" Người cha lại la to và ép đứa con bảo: "Bố đã lỡ lời, hối không kịp nữa. Nhờ con đi hộ. Con đừng lấy làm khổ sở. Nếu trộm được đào, ắt được thưởng trăm tiền vàng, cưới cho mày một cô vợ đẹp." Đứa con mới chịu nắm dây thừng, vòng quanh trèo lên, tay bắt chân theo, như nhện giăng tơ, dần dần tới tít từng mây. không nhìn thấy nữa. Hồi lâu sau, thấy rụng xuống một trái đào to bằng cái chén. Người làm trò mừng rỡ, cầm dâng lên công đường. Trên sảnh đường (các quan) truyền nhau xem quả đào một lúc khá lâu, không biết là thật hay giả. Bỗng nhiên dây thừng rớt xuống mặt đất. Người làm trò hoảng sợ nói: "Nguy quá. Trên trời có ai cắt đứt dây của tôi rồi, con tôi biết bám vào đâu bây giờ." Lát sau có một vật rơi xuống. Nhìn xem thì là cái đầu của đứa con mình. Người cha ôm lấy khóc: "Đúng là vì hái trộm đào, bị người coi vườn phát giác, con tôi bỏ mạng rồi." Một lúc sau lại thấy một cái chân rớt xuống. Chẳng mấy chốc, tay chân thân thể đứt lìa rớt xuống cả, không còn gì nữa. Người làm thuật đau buồn thống thiết, đem nhặt từng mảnh bỏ vào trong sọt, rồi đóng nắp lại, nói: "Lão phu chỉ có một đứa con này, ngày ngày theo tôi đi từ nam tới bắc. Nay vâng lệnh quan, không ngờ mắc phải thảm họa kì lạ này. Tôi phải mang nó đi chôn đây." Rồi ông ta bước lên sảnh đường quỳ xuống nói: "Chỉ vì hái trộm một trái đào mà giết chết con tôi, Nếu như chư quan có thương xót kẻ hèn này thì xin giúp tiền chôn cất nó, lão phu sẽ kết cỏ ngậm vành báo đáp." Khách xem kinh hãi, đều cho vàng bạc. Người làm trò nhận tiền, giắt vào lưng, rồi gõ vào sọt, gọi: "Bé ba con, sao không ra cám ơn lãnh thưởng mà còn đợi gì nữa." Chợt một đứa trẻ đầu bù đội nắp sọt chui ra, quay về hướng bắc cúi đầu lạy tạ. Đúng là đứa con  của người làm trò vậy. Thấy phép thuật lạ lùng như thế, nên đến nay tôi vẫn còn nhớ. Về sau nghe nói phái Bạch Liên giáo (trước) biết làm thuật này, chắc hẳn người này là dòng dõi của họ chăng?